Bệnh tả, nguyên nhân, đường lây, triệu chứng, và cách phòng bệnh



Bệnh Tả là bệnh truyền nhiễm cấp tính ở đường tiêu hoá do vi khuẩn Vibrio cholerae gây ra, biểu hiện bằng tiêu chảy dữ dội kèm nôn mửa, dẫn đến mất nước và điện giải nghiêm trọng, có thể gây tử vong nếu không được điều trị kịp thời.

Bệnh tả chủ yếu truyền qua nguồn thức ăn hoặc nguồn nước bị nhiễm khuẩn (Ảnh nguồn Internet)

Bệnh tả chủ yếu truyền qua nguồn thức ăn hoặc nguồn nước bị nhiễm khuẩn (Ảnh nguồn Internet)

Nguyên nhân gây bệnh tả

Vi khuẩn vibrio cholerae là nguyên nhân gây ra bệnh tả ở người. Chúng phát triển tốt trong môi trường có nhiều dinh dưỡng, môi trường kiềm như: Trong nước, thức ăn, trong cơ thể của các động vật biển (cá, cua, sò biển...) đặc biệt là trong nhiệt độ lạnh, phẩy khuẩn tả có thể sống được vài ngày đến 2 - 3 tuần. Phẩy khuẩn tả có bị tiêu diệt ở nhiệt độ (80°C/5 phút), hóa chất diệt khuẩn thông thường và môi trường acid.

Độc tố cholerae do vi khuẩn tả sản sinh trong ruột non chính là nguyên nhân quan trọng nhất gây ra bệnh. Độc tố này liên kết với thành ruột, cản trở dòng chảy bình thường của natri và clorua, làm cho cơ thể tiết ra một lượng nước khổng lồ, dẫn đến tiêu chảy và nhanh chóng mất một lượng lớn nước và điện giải.

Nguồn nước ô nhiễm là nguồn bệnh chính của bệnh tả, ngoài ra sò ốc sống, trái cây tươi sống, rau và các loại thực phẩm khác cũng có thể chứa vi khuẩn cholerae.

Đường lây của bệnh

Bệnh tả chủ yếu truyền qua nguồn thức ăn hoặc nguồn nước bị nhiễm vi khuẩn cholerae. Ở các nước phát triển, hải sản thường là nguyên nhân chính, còn ở các nước đang phát triển con đường truyền chủ yếu từ nguồn nước.

Khi ăn phải thức ăn có chứa vi khuẩn, hầu hết chúng không thể sống sót được trong môi trường acid của dạ dày người.

Một số vi khuẩn sống sót vượt qua khỏi dạ dày và đến ruột non, chúng sẽ di chuyển qua màng nhầy dày của ruột để đến thành ruột, nơi mà chúng có thể phát triển mạnh.

Vi khuẩn vibrio cholerae bắt đầu sản xuất các sợi xoắn xoay để đẩy mình qua chất nhầy của thành ruột non.

Khi đến thành ruột, vi khuẩn vibrio cholerae bắt đầu sản xuất các độc tố gây tiêu chảy lượng lớn ở người bị nhiễm. Hậu quả dẫn đến là đưa các lứa vi khuẩn mới vào nguồn nước uống và sẽ đi vào những vật chủ tiếp theo nếu không có các biện pháp vệ sinh thích hợp và đúng chỗ.

Triệu chứng của bệnh tả

Các biểu hiện chính của bệnh tả là tiêu chảy nhiều, không đau bụng và nôn mửa những chất lỏng trong suốt. Tiêu chảy đã từng được mệnh danh là “cái chết xanh” do da của người bệnh chuyển sang sắc xám xanh là kết quả của việc mất quá nhiều nước.

Image Alt

Đi ngoài nhiều lần, phân lỏng như nước vo gạo là biểu hiện điển hình của bệnh (Ảnh nguồn Internet)

- Thời kỳ ủ bệnh kéo dài từ vài giờ cho đến 5 ngày.

- Thời kỳ khởi phát biểu hiện chủ yếu là sôi bụng, đầy bụng, tiêu chảy vài lần.

- Thời kỳ toàn phát bệnh nhân tiêu chảy liên tục, đi ngoài rất nhiều lần với khối lượng lớn, có khi 10 đến 20 lít nước chất thải một ngày. Đặc điểm đại tiện ra phân trong bệnh tả điển hình chỉ toàn là nước, màu trắng lờ đục như nước vo gạo, không thấy có nhầy máu. Nôn mửa rất dễ dàng, lúc đầu nôn ra thức ăn, lúc sau nôn ra toàn nước. Người bệnh mắc bệnh tả thường không sốt, ít khi đau bụng. Tình trạng mất điện giải gây mệt lả, chuột rút...Triệu chứng mất nước: Tụt huyết áp, mạch nhanh, mắt trũng, da nhăn nheo, giảm nước tiểu...

- Thời kỳ hồi phục bệnh tả ở người thường diễn biến từ 1 - 3 ngày nếu được bù đủ nước và điều trị kháng sinh phù hợp.

Cách phòng bệnh

Để phòng ngừa bệnh tả chúng ta cần có các thói quen sau:

- Rửa tay bằng xà phòng và nước thường xuyên, đặc biệt là sau khi đi vệ sinh và trước khi chế biến thức ăn. Nếu không có xà phòng và nước, có thể sử dụng chất khử trùng tay có cồn.

- Uống nước đun sôi hoặc đã được khử trùng.

- Ăn thực phẩm còn nóng và được nấu chín hoàn toàn, tránh những thực phẩm bán hàng rong ngoài đường không đảm bảo vệ sinh.

- Tránh ăn các món hải sản sống.

- Gọt vỏ trái cây trước khi ăn,

- Cảnh giác với các thực phẩm từ sữa, bao gồm cả kem và sữa chưa tiệt trùng.

Ngoài ra để phòng bệnh tả cần uống vaccine. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo tiêm chủng của các nhóm có nguy cơ cao như trẻ em, người bị nhiễm HIV, ở những quốc gia mà bệnh tả vẫn còn nhiều.

 

 

Thu Ngân Trung tâm Kiểm soát bệnh tật