Tuy nhiên, để bảo vệ được họng, phòng tránh các bệnh do vi khuẩn, virus cần biết cách sử dụng thuốc súc họng một cách an toàn, hợp lý.
Các loại nước súc họng
Nguyên tắc chung là dùng các dung dịch kiềm ấm để súc họng, thường dùng dưới dạng dung dịch hoặc dạng bột có thể tan trong nước (dùng để pha súc họng). Thuốc súc họng thường được chia làm 3 nhóm:
Nhóm kháng sinh súc họng: Loại kháng sinh được sử dụng nhiều nhất để pha chế các thuốc súc họng là tyrothricine như veybirol-tyrothricine.
Nhóm sát khuẩn: Các thuốc sát khuẩn như: betadine gargle, givalex, BBM - muối borat, muối bicarbonat và methol...
Nhóm trung hòa pH: Nước muối 0,9%, natribicarbonat...
Các thuốc súc họng thường được cho thêm một số chất làm dịu, làm mềm niêm mạc họng, giảm đau, giảm viêm, chống dị ứng tại chỗ như benzocaine, menthol, muối salicylate, hexetidine...
Cần biết cách sử dụng thuốc súc họng đúng để bảo vệ đường hô hấp.
Một trong những lựa chọn kê đơn của bác sĩ
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, 70-80% các tác nhân gây bệnh cho cơ thể xâm nhập qua con đường mũi họng. Sự thay đổi của môi trường ở niêm mạc họng làm cho các tác nhân xâm nhập cơ thể dễ gây bệnh hơn ở môi trường pH sinh lý bình thường. Sự đề kháng của biểu mô đường hô hấp, nhất là vùng họng được tìm hiểu ngoài sự cân bằng của pH còn có sự tham gia của Ig trong lớp màng nhầy trên bề mặt niêm mạc. Bao gồm: IgG, IgA, IgM, ngoài ra còn có men lisozim, và có một độ pH cố định từ 6,8 -7,2.
Nghiên cứu về cơ chế gây bệnh của virus, vi khuẩn thường lây từ người sang người, thông qua tiếp xúc với dịch cơ thể của người bệnh, giọt nước bọt. Tùy thuộc vào mức độ lây lan của chủng virus, việc ho, hắt hơi hay bắt tay có thể khiến người xung quanh bị phơi nhiễm.
Thuốc súc họng có tác dụng sát khuẩn giúp làm sạch khoang miệng, diệt vi khuẩn, virus gây hại. Việc súc miệng sát khuẩn ít nhất 3 lần mỗi ngày có khả năng hỗ trợ giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm giữa người với người thông qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc dịch tiết.
Một số lưu ý khi sử dụng
Thuốc súc họng thường dùng 2-4 lần/ngày, 1-2 ngụm đầu súc thật sạch họng, sau đó ngậm thuốc trong 5 -10 phút rồi nhổ thuốc ra, tuyệt đối không nuốt thuốc. Tuy nhiên, có một số thuốc sử dụng với thời gian ngắn hơn, ví dụ listerin chỉ ngậm trong miệng 30 giây ngay sau khi đánh răng.
Cũng như mọi loại thuốc, nó có tác dụng phụ, chống chỉ định và chỉ nên sử dụng khi có chỉ định phù hợp. Ví dụ, eludril chỉ dùng cho người lớn và trẻ em trên 6 tuổi, betadine dùng cho trẻ em trên 30 tháng tuổi và những người không có bệnh lý về tuyến giáp. Chlorhexidine có thể gây đổi màu men răng và chất trám, gây loét, khô miệng hay thay đổi vị giác... thậm chí có thể gây phản ứng dị ứng nặng và sốc phản vệ trong số ít trường hợp. Chưa có dữ liệu an toàn trên trẻ em, do đó cần thận trọng khi sử dụng súc miệng chlorhexidine cho đối tượng này.
Ngoài ra, một số bác sĩ lo ngại rằng nếu dùng không đúng cách, việc súc họng “càng sâu càng tốt” có thể gây sặc ở người già, dẫn tới viêm phổi do hóa chất gây nguy hiểm. Nếu trẻ nhỏ (cân nặng dưới 10kg) nuốt phải 30-60ml chlorhexidine gluconate có thể gây khó chịu tiêu hóa, buồn nôn, nhiễm độc cồn... Thuốc súc họng không được sử dụng ở những bệnh nhân có tiền sử dị ứng với bất kỳ thành phần nào của thuốc. Nếu gặp bất cứ dấu hiệu nào mà người sử dụng thuốc thấy có biểu hiện bất thường, phải dừng ngay việc súc họng và báo cho bác sĩ biết để xử trí kịp thời, có thể thay thuốc hoặc điều trị bằng phương pháp khác.
Đối với phụ nữ có thai hoặc cho con bú, việc sử dụng thuốc súc họng tại chỗ khi bị viêm nhiễm vùng họng đem lại kết quả và độ an toàn cao. Tuy nhiên, thuốc súc họng cũng có một tỷ lệ nhỏ hấp thu vào máu và qua đó vào cơ thể của thai nhi theo nhau thai hoặc vào cơ thể trẻ còn bú qua sữa. Vì vậy, cần tuân thủ chặt chẽ hướng dẫn của thầy thuốc. Tốt nhất chỉ nên dùng dung dịch nước muối nhạt để súc họng.
Thuốc súc họng thường được sử dụng dưới 10 ngày, trừ nước muối. Nếu sử dụng quá dài ngày cũng gây nên tình trạng mất cân bằng sinh thái của lớp thảm vi khuẩn tại họng và gây ra một số bệnh như nấm họng, viêm loét họng, mất sức đề kháng vùng họng và càng tạo điều kiện cho vi khuẩn gây bệnh.